Sunday, July 9, 2017

Nỗi nhớ mùa cá chạch quê tôi vào mùa nước nổi

Một buổi chiều mưa lạnh tôi cùng nhóm bạn có dịp thưởng thức những món ăn đặc sản miền tây, có 1 món  ăn dân dã đã gợi cho tôi nỗi nhớ quê tha thiết, đó là món cá chạch chiên giòn. Mùa này chắc hẳn bà con quê tôi cũng đang rộn ràng đón 1 mùa cá chạch đồng.

 Ở quê tôi mùa cá chạch bắt đầu vào tháng 8 âm lịch hàng năm đó là lúc mùa nước dâng ngập tràn đồng, theo bà con sống bằng làm nghề đánh bắt cá mùa nước, ngày trước cá chạch có nhiều vô kể, nhưng ít ai chuyên nghề bắt cá chạch để mưu sinh, về sau biết được giá trị ngon, bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe cá chạch được mọi người ưa chuộng thì 1 số người dân đã tập trung khai thác nguồn lợi cá chạch đồng. Từ đó vào những tháng mùa nước nổi 1 số hộ gia đình ở xóm tôi đã dựa vào con cá chạch đồng hay còn gọi là cá chạch cơm để mưu sinh.
 Xem thêm :

mùa cá chạch ở miền tây quê tôi

 Để bắt được cá chạch bà con đã nghĩ ra nhiều cách, tùy theo lượng nước như đổ dớn, đặt lợp hay dùng bồ cào. Thông thường cách đặt dớn và giăng lưới được sử dụng nhiều nhất tuy nhiên rộn ràng nhất trong mùa này vẫn là giăng lưới. Theo những người bắt cá có kinh nghiệm, lưới giăng cá chạch thường thì lưới 2 - 2.5 phân, do đặc tính sống dưới đáy bùn nên lưới giăng ít phao, có nhiều chì để dìm lưới sát đáy ruộng thì cá mới mắc lưới, loại lưới giăng cá chạch vì thế cũng khác so với các loại lưới bắt cá khác.

 Giăng lưới cá chạch không khó lắm nhưng cũng dãi dầu mưa nắng trên đồng nước, mỗi buổi xuôi xuồng trên các cánh đồng cũng bắt được hơn 4-5 kg, nhưng không phải ai cũng bắt được nhiều cá, đôi khi rong ruổi xuồng trên đồng cả buổi cá dính cũng chẳng được bao nhiêu. Mùa cá chạch họ phải men theo từng cánh đồng ngập nước lênh đênh suốt ngày này qua ngày khác. Có lẽ vậy mùa nước nổi về mùa cá chạch đến đã trở thành 1 phần của cuộc sống. 1 phần tình cảm của con người sinh ra và lớn lên ở vùng đất này.

 Những xuồng giăng lưới từ các nơi đổ về mưu sinh, họ không hề quen biết nhau dần cũng thành thân quen, chia sẻ với nhau ly nước trà ấm thôi nhưng cũng thấm đẫm tình người ấm áp. Cuộc sống của họ vào mùa đón cá chạch vẫn còn nhiều vất vả, lam lũ, những buổi trưa nghĩ mát bồng bềnh trên chiếc xuồng con nghe câu giọng cổ quê hương cũng thấy được cuộc sống bình yên tinh thần lạc quan hào sản của những con người chân chất.

 Ở quê trẻ con bọn tôi ngày xưa vẫn hay theo ba bơi xuồng dọc theo các cánh đồng đặt dớn, giăng lưới cá chạch, đứa nào cũng thích vì vừa được bì bỏm trên những cánh đồng ngập nước vừa được chính tay bắt được những con cá chạch mập ú. Càng thú vị hơn khi cập bến xuồng tại những gò đất và chờ thưởng thức món cá chạch nướng. mùi cá chạch thơm nồng lên khi nướng, mỡ từ cá chảy ra vàng rượi nhìn thôi là đã phát thèm. Cá chạch nướng beo béo, thịt ngọt, có lẻ ngọt vị phù sa từ đồng đất quê nhà, bữa cơm trưa trên đồng mộc mạc lam lủ nhưng mang 1 hạnh phúc lớn lao, chẳng cần phải vất vả kiếm tìm nơi đâu.

 Mùa cá về ở quê tôi hầu hết nhà nào cũng biết chế biến món ăn từ cá chạch, nhưng làm món gì thì làm nhưng các mẹ các chị vẫn thường là món canh chua cá chạch với các loại rau nội đồng của mùa nước nổi, trong đó buộc phải có bông điên điển. Bởi đó được xem là đặc trưng nhất vào mùa này. Cái hương vị từ cá chạch đã làm say lòng gợi nhớ gợi thương cho những đứa con đồng đất nơi đây.

 Vào mùa cá rộ bắt được cá chạch nhiều nên các mẹ các chị còn khéo tay làm khô cá chạch để ăn dự trữ, gửi biếu cho bà con họ hàng ở xa, món khô cá chạch cũng nhờ vậy dần được phổ biến và ngày nay khô cá chạch được xem là đặc sản. mùa cá ở các vựa khô cũng trở nên nhộn nhịp hơn. Để làm cho các khô dự trữ này giao cho các chợ đầu mối, khô cá chạch từ đó có thể đến được các bữa cơm hàng ngày của mọi người gần xa.

 Sống trong đô thị phồn hoa, mỗi khi nhớ quê tôi lại tranh thủ quay về, về để tìm lại ký ức cùng vô vị của quê hương, về để tìm lại tình đất tình người, chất tình ấy không chỉ chan hòa trong nghĩa tình đồng cam cộng khổ của những con người lam lủ mưu sinh trong mùa nước mà còn mang trong hương vị của những món ăn dân dã đồng quê và tôi về để tìm lại cơn gió mát của cánh đồng mùa nước nổi, mùa đã mang cuộc sống đến với bà con quê tôi .
------------------------------
nếu bạn đọc thấy hay thì hãy bấm like và chia sẻ cho bạn bé nhé và đừng quên để lại cảm nghĩ dưới phần bình luận nha !





                              

Friday, June 30, 2017

Hương vị nồng nàn của dưa kiệu trong những ngày Tết

Mùa xuân mới lại về trên quê hương tôi, một mùa xuân an lành nồng ấm tình thân. Nhắc đến Tết người ta thường nghĩ đến chợ hoa rộn ràng, những bao lì xì mừng tuổi mới, đòn bánh tét nóng hổi đêm giao thừa hay cành mai khoe sắc trước hiên nhà. Riêng tôi mỗi khi mùa xuân đến thật gần tôi lại nhớ đến 1 món ăn dân dã bình dị cùng mùi hương nồng nàn, đậm đà trong ký ức đó là món dưa kiệu.
Xem Thêm : 
- Cá bống dừa
- Mùa Khoai Lang
- Cá lóc nướng trui
- Cây Lục Bình
- Thịt chuột đồng

củ kiệu tôm khô món ăn không thể thiếu trong ngày Tết

 Ai có dịp ghé thăm quê hương tôi những ngày này sẽ thấy thích thú bởi bạc ngàn sắc xanh của các loại rau. Cuối tháng chạp là cao điểm rau bán Tết, trong đó có củ kiệu. Người dân quê tôi từ khi sinh ra đã gắn bó với nghề trồng kiệu, rồi lớn lên bởi hương kiệu nồng nàn suốt bao năm tháng, sự cần cù chịu thương chịu khó của những người nông dân đã biến vùng đất hoang vu thành vựa kiệu trừu phú như ngày hôm nay.

 Trong 1 năm kiệu theo người nông dân qua 2 vụ, vụ kiệu giống và vụ kiệu Tết. gia đình bên Nội tôi có truyền thống trồng kiệu bán Tết từ hơn chục năm nay. Mấy chú nói đất đai pha cát quê mình thích hợp nhất là trồng các loại cây có củ, như hành tím , khoai lang, củ cải trắng, nhưng trồng hợp nhất vẫn là trồng kiệu. Kiệu không những báo hiệu mùa xuân về mà còn mang theo kế sinh nhai những ngày cuối năm.

 Tiền bán kiệu Tết cũng dư ra chút đỉnh để dành lại để mua sắm trong Tết. Sau mấy tháng dưới bàn tay chăm sóc của người nông dân, kiệu đã sẵn sàng thu hoạch, mùa thu hoạch nhằm vào những ngày cuối tháng chạp âm lịch tức là tháng giêng hoặc bước sang tháng 2 dương lịch. Mùa thu hoạch kiệu là mua rẩy đông vui nhất, nhà này thu hoạch thì nhà kia sang đến tiếp, cứ thế thu hoạch dần công để tiết kiệm chi phí và tiền thuê mướn nhân công, cứ thế lâu dần đã hình thành 1 tập quán sống tốt đẹp trong tình nghĩa của người dân nơi đây, trong ký ức của nhiều người  khoảng thời gian thu hoạch kiệu là đáng nhớ nhất.

 Trên bờ líếp những hàng kiệu mập ú chờ những bàn tay người dân hái mang về, từng cây kiệu được nhổ lên khỏi lớp đất, phơi ra những củ căng tròn. Kiệu mới thu hoạch có mùi rất đặc trưng, đứng xa hàng chục mét vẫn còn ngửi được mùi cay nồng. Con kênh mà thường ngày để bơm nước vào đồng, bây giờ dùng làm nơi để rửa những bó kiệu mới hái, những lớp bùn đất còn sót lại bị cuốn trôi theo dòng nước, để lộ ra những củ kiệu trắng hơn khi vừa được được nhổ lên. Chứng kiến bao nỗi thăng trầm với cuộc sống vất vả của người nông dân, có lẽ vì vậy mà hương kiệu, củ kiệu càng thêm nồng them cay  và công sức người trồng đã được thiên nhiên chiều long cho mưa thuận gió hòa thế là mùa xuân năm nay có được niềm vui trọn vẹn.

 Ở những gian hàng chợ Tết nhộn nhịp, có thêm 1 góc bán kiệu, kiệu vừa mới nhổ được chuyển từ vựa lên chợ nên còn tươi ngon và phảng phất mùi nồng cay riêng biệt không lẫn vào bất cứ loại rau củ nào. Kiệu được chế biến thành nhiều món ngon trong Tết nhưng phổ biến là làm dưa kiệu. Thế nên những ngày 25-26 tháng chạp âm lịch là các bà nội trợ lại tất bật mua kiệu tươi về làm dưa kiệu ăn dần .

 Và mỗi khi cây mai trước sân bung nở những nụ đầu tiên cả nhà tôi lại xúm xít bên nhau làm món kiệu Tết quen thuộc, việc làm dưa kiệu không cầu kỳ tốn nhiều công sức như nấu bánh tét, quết bánh phồng. Cũng như bao bà con ở vùng quê khác, người dân quê tôi cũng rất thích ăn món dưa kiệu trong dịp Tết đến xuân về. Trong các công đoạn làm kiệu, có lẽ là lặt kiệu là nhộn nhịp và đông vui hơn cả, người lớn và trẻ con quay quần vừa lặt kiệu vừa trò chuyện vậy mà rôm rả 1 xóm nhỏ trong bưởi chiều cuối năm. Lăt kiệu là công đoạn chiếm nhiều thời gian nhất nên má và mấy dì kể cho bọn tôi những câu chuyện rất thú vị về xuất xứ của củ kiệu.

 Ngày xưa có 1 nàng công chúa rất yêu thích việc trồng trọt, nàng tên là Kiệu, 1 ngày kia trong lúc thăm ruộng nàng Kiệu phát hiện ra 1 loài cây lạ, nàng đem giống cây này về trồng, đến lúc cho củ nàng đem củ ngấm với dấm và nước ngọt của cây trái vài ngày sau củ không còn vị gắt lại thơm nồng. Nàng Kiệu dã dân lên vua cha món ngon ăn kèm với bánh chung luộc. Vua cha nếm thử và rất thích từ đó vua hạ lệnh trồng phổ biến loại cây này và đặt tên là Kiệu theo tên của nàng công chúa.

 Theo kinh nghiệm của má chọn kiệu làm dưa phải chọn kiệu có kích thước vừa phải không quá to cũng không quá nhỏ mới cho được những hủ kiệu ngon. Kiệu rửa qua 2 nước cho nhả bớt chất cay nồng người nào kỹ tính hơn còn ngâm kiệu với nước muối hoặc phèn chua sau khi rửa sạch chờ kiệu ráo nước rồi chuyển sang công đoạn ướp gia vị. Đường và 1 chút muối được cho vào thao kiệu và trộn đều tay, người có kinh nghiệm thường không đổ giấm trực tiếp vào kiệu vì như vậy kiệu sẽ bị đục và mất đi độ giòn ngon cần thiết.

 Cách làm kiệu cầu kỳ như thế này phải chờ 1 đến 2 tuần mới có thể ăn được nhưng sẽ bảo quản được lâu hơn và càng để lâu kiệu sẽ càng chua và thấm vị. Kiệu sau khi ngấm gia vị thì mang ra phơi nắng vài ba ngày, nhờ cái nắng ấm áp của mùa xuân mà mớ kiệu tươi thêm nồng đượm hơn, cái mùi hương kiệu thoang thoảng hòa cùng mùi nắng xuân ấm áp không lẩn vào đâu được. phài phơi đủ 3 nắng kiệu thành phẩm mới ngon và giòn.

 Kiệu phơi xong được má cho vào hủ thật khéo léo, ăn kiệu không chỉ cần ngon, giòn, thấm vị mà cũng kỹ lưỡng công đoạn xếp từng củ kiệu tươi vào hủ. má dặn sau này lớn lên làm gì cũng phải cẩn thận cũng như việc xếp kiệu này vậy. Lúc nào má cũng thường hay dạy con cái những điều hay lẽ phải, để mỗi mùa xuân trôi qua chúng tôi lại thêm lớn khôn, từ những bài học đơn giản nhưng sâu sắc của má.

 Qua bàn tay chế biến khéo léo của con người, kiệu đã thành nét đặc trưng truyền thống trong dịp Tết góp phần làm phong phú hơn ẩm thực Tết, món ăn đơn giản này đã gói hồn dân tộc vì từ bắc chí nam hầu như nhà nào cũng làm dưa kiệu để ăn dần trong Tết. Nếu quá bận rộn thì những chiều cuối năm ra chợ mua vài hủ kiệu ngon.

 Mâm cơm cúng ông bà trong mấy ngày Tết không thể thiếu món dưa kiệu, 1 dĩa kiệu ngon như tấm lòng thơm thảo của con cháu dâng lên ông bà tổ tiên. Trong bữa cơm ngày xuân luôn có sự hiện diện của dĩa kiệu ngâm được bài biện trang trí đẹp mắt. Khi ăn nhiều thịt cá, bánh mứt thì những món rau củ muối chua như kiệu lại được ưa thích. Chút dưa kiệu làm cho món ăn ngày Tết ngon hơn và phần nào đỡ ngán.

 Cách ăn kiệu mỗi miền cũng khác nhau nếu như ở miền bắc chuộng ăn kiệu với bánh chưng luộc, thịt nấu đông. Người miền nam lại thích ăn dưa kiệu với bánh tét chiên, thịt kho hột vịt hay là canh khổ qua. Từ từ nhấm nháp hương vị kiệu chua chua ngòn ngọt thưởng thức bữa cơm đầu năm cùng dưa kiệu và những món ăn truyền thống mà thấy ấm áp tình ruột thịt trong 1 cái Tết đoàn viên. Rồi những cái Tết qua đi tôi trở lại thành phố để tiếp tục cho công việc năm mới, má cũng không quên bỏ vào hành lý của tôi 1 hủ kiệu ngon mà má làm riêng cho tôi, tôi đã mang theo từ quê hương mình 1 cái Tết thật ngọt ngào, gói ghém tình thương yêu gia đình trong những hủ kiệu nồng nàn .


Saturday, June 10, 2017

Ký ức mặn mòi Ơ Kho Quẹt hương vị quê hương

 Tranh thủ mấy ngày nghĩ lễ tôi liền về thăm quê, cái nơi cũng không quá xa xôi với chổ tôi đang làm việc nhưng vì bận bịu mãi có khi đôi ba tháng tôi mới mới về được 1 lần. Biết con trai lâu lâu mới về mẹ của tôi cũng làm vài món để đãi con. Tuy không phải cao lương mỹ vị gì nhưng cũng thuộc loại ngon bổ dưỡng đó, vậy mà tôi vẫn còn thấy thiếu 1 món ăn dân dã, mặn mòi mà tôi đã thích ăn từ lúc còn nhỏ xíu và đòi mẹ phải bồ sung ngay món này cho bằng được đó là ơ kho quẹt.



Món ăn mắm kho quẹt chấm với rau

 Ơ kho quẹt mẹ làm nó thơm thiệt làm sao tôi cứ hít hơ hít hà mà quên mất hôm nay còn có nhiều món ăn ngon khác, tôi thích có vẻ hơi lạ đời vậy, chẳng phải vì lâu rồi mình không được ăn vì món này với tôi chỉ có mẹ làm là ngon nhất, và cũng có nhiều kỷ niệm nhất. Vì tôi là con một trong nhà nhưng cũng lanh lẹ nên hồi còn nhỏ bị mẹ sai đi mua những thứ lặt vặt ở tiệm tạp hóa của cô Bảy ở đầu đường mà phần nhiều là mua nước mắm, lần nào tôi cũng ra vẻ hăm hở lắm, bởi mỗi lần mua là tôi được cô Bảy dúi cho cục kẹo, một cái bánh để ăn mà  bánh kẹo thì đứa con nít nào mà không thích chứ.

 Tôi hay thường vào bếp phụ mẹ những việc lặt vặt và cũng nhờ đó mà tôi biết mẹ nấu ăn rất khéo và ngon, nhất là ba cái món dân dã như Kho Quẹt. Nghe kho quẹt lúc đầu tôi cũng nghĩ đơn giản là cho nước mắm vào kho cho kẹo lại rồi quẹt ai dè mẹ chế biến cũng cầu kỳ lắm. mẹ nói “ kho đúng cách thì nó mới ngon “. Chỉ riêng cái phần nguyên liệu để kho thôi thì nó phong phú rồi, có khi mẹ chỉ kho nước mắm đơn thuần sau đó nêm nếm thêm chút gia vị. Còn những lúc ba đi xúc hay kéo lưới về có ít cá hủng hỉnh thì mẹ lại chế biến món cá kho quẹt, độc đáo hơn mẹ còn biết tận dụng nồi thịt đã ăn hết phần cái rồi kho cho nó sắt lại để làm món kho quẹt nữa. Thế nhưng có 1 thứ nguyên liệu mà lúc nào mẹ cũng chuẩn bị sẳn và không bao giờ thiếu đó là tép mỡ, dù kho cách nào thì cuối cùng cũng thấy mẹ thêm vào loại nguyên liệ này. Và đúng là có tép mỡ thì món kho quẹt thơm thiệt.


 Thấy mẹ đôi lúc còn đổ thêm chút nước cơm vào ơ kho quẹt, tôi thắc mắc thì mẹ so đầu bảo : con bỏ vào như vầy thì nước trong ơ sẽ sánh lại, tạo nên độ sền sệt rất béo và ngon. Khi ơ kho quẹt còn nổ tý tách trên bếp lửa hồng thì tôi đã chạy tuốt ra sau vườn hái 1 mớ rau lang rau muồn về cho mẹ luộc. Tuy cuộc sống có phần đạm bạc khó khăn nhưng ở đó tôi cảm nhận được cả tình cảm ấm áp của gi đình, sự yêu thương của tình ruột thịt. Đó là tình cảm của mẹ được chăm chút từng miếng ăn giấc ngủ cho tôi, còn ba thì suốt ngày mần ngoài đồng để kiếm tiền lo cho tôi ăn học. vì lao động chân tay nên trong nhà ba cũng là người đói bụng sớm nhất, trời hơi xế trưa là ba cố gắng làm việc thật nhanh để về tắm rửa và ăn khi cơm còn nóng.

Ba nói : ăn cơm nóng thì mới ngon, đặc biệt là ăn với kho quẹt, bởi ăn nóng thì nó làm cho tép mỡ và hành của ơ kho quẹt dậy lên thơm lừng hấp dẩn lắm.


 Chính nét độc đáo riêng ấy mà ăn cơm với kho quẹt giữa tiết trời se lạnh mới cảm nhận được hết cái ngon của nó, và điều này lại phù hợp với ba vì hôm nào đi làm về tắm song cũng là lúc cả nhà quay quần ăn uống. Ăn kho quẹt tôi thì thích nhất ăn cái phần khen khét chung quanh vách nồi nó thơm ngon đến độ có khi tôi cứ quẹt 1 chổ đó hoài mà quên mất cái phần cá bên dưới nồi và bị mẹ la quá trời luôn. Còn ba tôi thì lại thích ăn kho quẹt với cơm cháy thôi, ba nói ăn như vậy mới giòn và ăn sướng miệng.

 Kho quẹt dẫu ăn với cái gì và trong hoàn cảnh nào thì nó cũng thể hiện sự mặn mòi vốn có của nó, nhưng với tôi sự mặn mòi này còn chứa đựng cả tình cảm của mẹ vào trong món ăn ấy, đó là món ăn dân dã, đậm tình là kỹ niệm là cuộc sống của gia đình của làng quê chồm xóm ngày trước. Quả thật ngày xưa ở quê tôi có nhiều gia đình ăn kho quẹt lắm, hỏi ra mới biết cũng có nhiều lý do, có người vì nghèo không có tiền mua thịt cá, có người thì ngại chợ xa, cũng có trường hợp chỉ đơn thuần là thích ăn thôi.

 Ở quê cũng dễ chỉ cần siêng 1 chút xách cái rổ ra mấy ao vuông sau nhà xúc ít con cá đồng về là có ngay ơ kho quẹt. Thấy món ăn đơn giản vậy chứ họ chuẩn bị dụng cụ nấu nướng và chế biến bài bản lắm nghen, hầu như nhà nào cũng có trang bị nồi đất hết, nghe nói chỉ có nồi đất thì kho mới ngon chứ kho bằng nồi kim loại dể bị ra ten lắm. Dì út tôi là rành cái vụ này số một luôn, dì nói chọn nồi đất là phải chọn cái nồi lớn gấp đôi số thực phẩm muốn kho, để lúc kho gần cạn nước mắm không bị văng tứ tung ra ngoài  và bám hết vào thành nồi và cái phần bám này là ngon nhất, có lẽ vì vậy mà thằng út con của dì luôn dành với mấy anh của nó chuyện trộn nồi vì khi đó cơm sẽ thấm đều hương vị thơm ngon mặn mòi càng tăng thêm.

 Nhiều lần thấy mẹ và dì làm món kho quẹt, tôi cũng biết qua nhưng chưa có dịp trổ tài vì mẹ thương tôi nên thường làm thay hết. tôi nhớ có lần đi học về, thấy mẹ bị bệnh mà nhà thì hết gì ăn. Tôi nhớ ra một món giản đơn mà mẹ hay làm cho tôi ăn mỗi khi phải đi học sớm, đó là món cháo trắng ăn với kho quẹt, nói nghe thì dễ nhưng lần đầu tiên nấu nướng tôi lo là chẳng biết có ngon không, nhưng nghĩ lại người ăn là mẹ mình có ngon  hay dỡ chắc cũng không đến nổi. Vậy mà bất ngờ lắm nghen khi ăn mẹ lại nói ngon và khen tôi giỏi nữa.Tôi biết cháo trắng ăn với kho quẹt là ngon rồi nhưng tôi làm chắc hẳn là còn vụng về vì con trai mà, do thương con nên mẹ khen động viên vậy thôi chứ tôi nếm thử thì nó mặng bà cố luôn.

 Ơ kho quẹt rất đổi bình thường nhưng với tôi nó có nhiều kỷ niệm như vậy, nó theo tôi từ thuở ấu thơ cho đến ngày khôn lớn, Tôi nhớ lúc lên thành phố học, mỗi lần về thăm nhà biết tôi thích, lần nào mẹ cũng làm 1 ơ kho quẹt rồi cho vào keo để tôi mang theo. Mẹ nói kho quẹt mà đậy kỹ càng có thể để dành ăn hàng tuần mà không bị hư hao gì hết.

 Rồi tôi đi làm tôi có dịp cùng đồng nghiệp bạn bè ghé những quán xá sang trọng nhiều hơn và ở đây tôi bắt gặp món kho quẹt cơm cháy ngày nào mình từng gắn bó. “ Có người nói vui bây giờ mà vào nhà hàng mà gọi kho quẹt cơm cháy mới là sành điêu “. Thật ra có một số người đã ăn quá nhiều món ngon vật lạ trong những bữa tiệc thịnh soạn đột nhiên được thưởng thức lại cái món từ lâu không được dùng thì lúc đó họ cảm nhận đây là món ăn ngon cũng là lẽ thường tình.

 Với tôi dẫu ăn món kho quẹt ở nhà hàng những nơi sang trọng tôi cảm nhận không thể ngon bằng món ăn này do chính tay mẹ làm ngày nào, bởi nó chứa đựng sự mặn mòi từ hương vị, tình cảm và ngập đầy kỷ niệm tuổi ấu thơ .



Wednesday, May 31, 2017

Những ích lợi từ cây lục bình và ký ức khó phai

Lục bình bông tím, điên điển bông vàng
Điên điển mọc ở đất lành, lục bình trôi nổi như chàng hát rong.

 Có mấy ai nghĩ rằng loài cây thủy sinh hoang dại, trôi nổi như cây lục bình lại mang vẻ đẹp hiền hòa như thế. Loài bèo dạt hoa trôi ấy cứ lặng lẽ trôi theo con nước vơi đầy và rồi âm thầm đơm hoa giúp ít cho đời, dẫu cho sóng dập dìu, lục bình vẫn trôi vẫn vương lên và tiếp tục sinh sôi nẩy nở.
ký úc miền tây, cây lục bình

 Cây lục bình sinh trưởng rất nhanh, chúng có mặt khắp vùng sông nước đồng bằng sông cữu long. Hể còn chút thân chút rể là lại sinh thêm cây con, những bụi lục bình gắn kết nhau bằng 1 đoạn rể, cứ thế chúng sinh sôi thành đám lớn. Ngày xưa chủ yếu người dân đi lại bằng xuồng ghe, nhưng với lượng lục bình dày đặc, đôi lúc gây cản trở việc đi lại. Bởi thế 1 thời lục bình được xem như loài thủy sinh hoang dại.

xem thêm : Ngọt Ngào Hương Vị Cây Mía Quê Tôi Miền Tây Nam Bộ
                         : Ký Ức Về Cây Dừa Nước Ở Miền Tây Quê Tôi

 Từ xa xưa khi chưa biết hết công dụng của lục bình, người dân chủ yếu dùng nó đắp gốc cho vườn cây ăn trái, hoặc những loài  cây lâu năm lúc nắng hạn, vì rể lục bình có thể làm mát giữ ẩm, về sau khi phát hiện lục bình mục có lượng phân hữu cơ bổ sung cho cây trồng lại không tốn tiền mua nên người dân bắt đầu sử dụng chúng nhiều hơn.Cũng có thể dùng lục bình làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Lục bình có tính mát nên giúp vật nuôi dễ tiêu hóa mau lớn hơn.

 Khi biết ngó non của lục bình có thể dùng để chế biến nhiều món ăn đa dạng, hương vị không kém các loại rau đồng khác mà lại dễ tìm vì không mất tiền mua. Tranh thủ làm vườn xong cha tôi cắm sẳng mấy cái cần câu ngoài ruộng. Những năm nước nổi lâu rút càng dễ kiếm cá hơn.

 Còn mẹ tôi thì cũng tranh thủ lúc con nước lớn mang theo những bụi lục bình non đó mẹ bơi xuồng theo để hứng lục bình vào, tướt 1 hồi cả rổ lục bình xanh ngon ơi là ngon, tôi đoán mẹ sẽ làm món canh chua cho cả nhà. Tôi cũng đi theo mẹ hái lục bình nhưng không phải để ăn mà để lát đem về chơi bán bánh mì với nhỏ bạn. Đối với tụi con nít là những ổ bánh mì, là những cây lạp xưởng để bày hàng ra bán, bánh mì lục bình cũng có nhân, đoạn nối các bụi lục bình tôi gọi đó là lạp xưởng và chúng được dồn vào ổ bánh mì. Tuy chúng tôi không ăn nhưng nhìn cũng bắt mắt lắm.

Thấy mẹ hái lục bình, tôi biết thế nào chiều nay tôi cũng ăn cơm sẽ no căng cái bụng cho mà xem. Lục bình mẹ nấu món canh chua với cơm mẻ, kho thêm mẻ cá kho khô nữa là đủ cho bữa cơm chiều. những người dân quê tôi thì bữa cơm chỉ giản dị thế là đủ, mà ấm cúng tình cảm gia đình biết bao.

 Mỗi khi gió bất về trẻ con là hay ho hen nhất, khi ấy có thể áp dụng bài thuốc dân gian đơn giản hữu hiệu mà ông bà đã truyền lại cho lớp sau. Bài thuốc bông lục bình chưng với đường phèn. Thiên nhiên khắc nghiệt thì cũng bù đắp cho con người, mùa gió bất về cũng là mùa trổ bông. Dẫu chỉ bị xem như loài cây thủy sinh hoang dại, lục bình vẫn từng ngày sinh sôi nẩy nở, bao bọc những con kênh, vẫn ở bên cạnh người dân quê chân chất  hiền lành.
Thân em như đám lục bình
Lênh đênh theo những dòng tình ngược xuôi.

 Kiếp sống lênh đênh theo con nước lớn ròng, đời lục bình trôi dạt biết về đâu. Có lẽ vì thế hình ảnh lục bình được nhắc nhiều tới trong những bài ca dao xưa, nhất là những câu ca dao than thân trách phận, mỗi khi cuộc sống không bằng phẳng, tình duyên không trọn vẹn.
Trời mưa ướt cánh lục bìnhDòng sông định mệnh xưa mình theo ai ?Thương em bến nước mười haiTrong nhờ đục chịu trách ai thay lòng.Trời mua bong bóng bập bòngEm đi lấy chồng mưa hết trên anh.
 Bao đời bèo dạt hoa trôi, nay lục bình đã có bến đỗ cho riêng mình nhờ những hữu ích không ngờ tới của nó. Trồng lục bình không cần vốn, không mất nhiều công cũng chẳng cần phải bón phân, chỉ cần có bến sông dùng cây rào chắn, không cho lục bình trôi đi là được. Người trồng lục bình có thu nhập ổn định, người đi cắt lục bình thuê cũng kiếm được từ 120-150 ngàn/ buổi. Ngoài công việc đồng án, cũng có thể tranh thủ đi cắt lục bình tươi bán cũng kiếm thêm thu nhập trang trãi trong ngoài lo cho gia đình, con cái học hành.

 Lục bình đem phơi sẽ có giá cao hơn lục bình tươi vì có thể chế biến sản phẩm ngay. Phơi lục bình cũng không mất nhiều thời gian, chỉ việc trãi chúng ra rồi để đó khi nào khô đúng độ có thể dùng được thì bó lại cân cho xí nghiệp.Đặc tính của cây lục bình già khi phơi khô sẽ rất dai vì thế người ta dùng nó để đan vật dụng trong gia đình.

 Ban đầu chỉ đan những vật dụng bình thường như : rổ, giỏ xách lớn, những cái sịa đựng đồ. Về sau những ý tưởng sáng tạo ngày càng nhiều người ta có thể thiết kế làm bàn, ghế và cả những đồ trang trí nội thất cao cấp như các bộ salon đắt tiền, những tủ đựng quần áo sang trọng và những túi xách thời trang cho các chị em phụ nữ. những sản phẩm làm từ lục bình còn được trưng bày ở các hội chợ lớn, có loại sản phẩm từ loài cây dân dã này có thương hiệu nổi tiếng và được người dân ưa chuộng. Đặc biệt là những du khách nước ngoài. Họ rất thích thú trước sự khéo léo với bàn tay lành nghề của bà con nông dân Việt Nam.


Thursday, March 9, 2017

Ẩm thực miền tây , mùa cá Linh và các món ăn chế biến từ cá Linh

 Điên Điển, cá Linh là những sản vật đặc trưng mà thiên nhiên đã mang đến bù đắp cho người dân vùng Đồng Bằng Sông Cữu Long trong mùa nước nổi. Mùa nước nổi là mùa cá Linh sinh sôi nảy nở và theo con nước lũ lượt kéo về trên khắp các cánh đồng miền quê vùng sông nước miền tây. Đó là mùa vui cũng là mùa thương nhớ hằng sâu trong lòng người dân miền lũ

mùa bắt cá linh ở miền tây
Cá Linh thuộc họ cá chép chỉ thích hợp với vùng nước ngọt và những nơi có dòng chảy, nguồn gốc từ Biển Hồ Campuchia. Vào đúng ngày rầm tháng 7 âm lịch đàn cá linh đổ về nhiều nhất vì vậy người dân cho rằng cái tên cá Linh có liên quan tới đặc tính của nó . 
Tên gọi của loài cá này xuất phát từ câu chuyện vua Gia Long bôn tẩu. Chuyện kể rằng trên đường đi của vua Gia Long đến đoạn sông Vàm Nao thì có con cá nhảy vào ( đó là con cá Linh ngày nay ) Vua đoán có chuyện chẳng lành nên cho thuyền quay trởi lại nhở vậy tránh được lần phục kích của đối phương, vua Gia Long đã đặt tên cho loại cá đó là cá Linh để thể hiện lòng tri ân .

 Trước khi bắt đầu đón mùa cá Linh làng xóm đã nhộn nhịp vì tất bật chuẩn bị dụng cụ đánh bắt, mọi thứ được sửa sang để sẵn sàng cho đợt đánh bắt cá Linh. Mỗi chiếc Dớn ( là cái lưới có hình ống ) dài hàng chục mét, mép viềng lưới được xác định ghim xuống nước được cột thật nhiều chiếc cộc chắc chắn để lưới không bị bung trong suốt thời gian 6 tháng nằm trên đồng nước nổi. Đầu mùa nước vừa lên tới đầu gối là người dân bắt đầu đem Dớn  ra đặt sẳng trên đồng cho đến cuối mùa nước dựt mới cướn Dớn đem về.Từ hừng đông xóm làng đã nghe rơm rả tiếng mời gọi nhau rủ nhau đi đặc Dớn, xuồng ghe bắt đầu nhộn nhịp tấp nập trên đồng. Những âm thanh và khung cảnh quên thuộc cứ lập đi lật lại mỗi năm một mùa là thêm một nét vẽ tô đậm hơn bức tranh quê trong ký ức của những người con vùng quê nước nổi. Khi thu hoạch cá, lượng cá nhiều hay ít còn tỳ thuộc hướng Dớn, nhờ kinh nghiệm tích lũy từ bao mùa nước nỗi trước, người dân có thể đoán được lượng cá nhiều hay ít theo dòng chảy của con nước đổ về .




 Những gia đình có điều kiện sắm ghe lớn, bộ Dớn to để đánh bắt số lượng nhiều, còn những người đánh bắt nhỏ thì sử dụng lưới, chài hoặc đặt  lưới. Chịu khó đặt và thăm thường xuyên, một ngày cũng kiếm được vài chục kg cá Linh cũng được hai đến ba trăm ngàn, trang trải trong ngoài và lo cho con cái học chi tiêu được thoải mái hơn. Đầu mùa cá Linh nhỏ bằng đầu đủa ăn, không giăng được lưới, đên khoảng giữa mùa cá bắt đầu bằng ngón tay người lớn là có thể giăng lưới được, nhưng phải sử dụng lưới dày rồi theo sự phát triển của cá người dân thay đổi loại lưới thua dần để giăng cá Linh lớn hơn .

 Cá Linh thu hoạch về được đổ vào những chiếc rọng cá dưới sông mà gia đình nào cũng đa trang bị sẵn, cá sẽ sống được lâu nhờ dòng chảy lưu thông của nước sông cho đến khi có ghe tới thu mua, nhiều chiếc ghe đục lớn đến bãi tập trung cá, cân rồi chở đi khắp nơi trong khu vực Đồng Bằng Sông Cữu Long và cả Sài Gòn. Có khi ghe lớn chạy ra tận đồng thu mua tại chổ chứ không cần đem về rọng, thu hoạch dên đâu đem ra cân đến đó, cá còn khỏe nhảy sôi sối nhìn thật thích thú .

mắm cá linh
 Cá được phân phối bán sỉ bán lẻ tại khắp các chợ, tuy số lượng nhiều nhưng cá linh luôn có giá nên góp phần cải thiện kinh tế gia đình cho nhiều người dân. Cá Linh ăn rất ngon vì thịt thơm bụng có mỡ, hơn nữa là loại cá lớn lên từ tự nhiên nên được rất nhiều người ưa thích và mua về chế biến món ngon cho gia đình. Nhắc đến cá Linh ai cũng xuýt xo vì độ hấp dẫn của nó, cá Linh có thể chế biến rất nhiều món ăn ngon khác nhau, món nào cũng ngon cả, nhất là kết hợp với các loại rau đồng cũng có trong mùa nước nổi như bông điên điển, bông súng. Đến cuối mùa nước khoảng tháng 10 tháng 11 âm lịch cá lớn khoảng 4-5 phân là có thể làm mắm. Cá Linh đã là đặc sản, mắm cá Linh lại càng Tăng thêm độ hấp dẫn vì độ đậm đà thơm ngon. Cá Linh và mắm cá Linh dần trở thành đặc sản không thể bỏ qua khi đến với vùng quê mùa nước nổi. Mắm cá Linh sau khi chín thì có thể dùng trực tiếp, cho chút đường, vắt vài trái chanh cho thêm vài lát ớt trộn đều lên là có thể dùng. Khi đi ra đồng chỉ cần đem theo cái thúng nhỏ đựng vài cái chén, tô mắm với rau đồng, cơm nguội là đã có được bửa cơm ngon lành để có thể tiếp tục công việc .

 Lại một mùa cá Linh nữa qua đi người dân mang những chiếc Dớn Về cẩn thận cất vào trong góc nhà chờ mùa sau tiếp tục đón những đàn cá Linh mới. Mùa cá Linh đã để  lại những kỹ niệm khó phai và là những sự biết ơn thiên nhiên đã cho một mùa hào sản để người dân mùa nước nổi đở phần vất vả trong cuộc sống mưu sinh, theo con nước mênh mông vơi đầy .

                                                                                      





                                                                                        

Tuesday, March 7, 2017

Mặn mà hương vị lẩu mắm cá đồng ở miền tây

 Có một món ăn thật vô cùng dân dã nhưng đã làm thổn thức biết bao tâm hồn của người con đất Việt đó là mắm cá đồng, chỉ ăn 1 lần thôi là suốt đời không sao quên được, ai đã từng lớn lên ở miền tây mà không một lần ăn cơm nguội với mắm đồng  để rồi cái hương vị mặn mà dân dã ấy mãi thấm sâu vào ký ức mỗi lúc xa quê bất chợt lại nhớ lại thương đến nao lòng . 
Lẩu Mắm Cá Đồng hương vị ẩm thực miền tây

 Chẳng ai biết mắm đồng có tự bao giờ chỉ biết từ thưở khẩn hoang mắm đồng đã hiện diện trong bửa cơm hàng ngày của người dân miệt sông nước miền tây. Cá đồng ngày trước nhiều vô số kể cứ hể đến tháng 10 -11 âm lịch khi nước lũ bắt đầu rút dần cá trên đồng một phần ra sông, một  phần co cụm về những ruộng, ao, đìa người ta tha hồ đi bắt cá đồng
Dân gian có câu : cha chày mẹ lưới con câu, chàng rể bắt cá, con dâu mò sò, để chỉ về một vùng đất giàu cá tôm, cá tôm nhiều đến nổi ăn tuơi không hết, người ta đem ra xẻ khô hoặc làm mắm để dành sẳn trong nhà .

Từ con cá chế biến thành con mắm chí ít cũng kéo dài từ ba đến bốn tháng và trải qua những công đoạn xử lý khéo léo và đầy kinh nghiệm của người phụ nữ. Nếu không có kinh nghiệm ướp không đủ muối hoặc nhiều muối sẻ làm hư cả khạp mắm .


Người xưa có câu, cá không ăn muối cá ương, con cải cha mẹ trăm đường con hư. Để nói về vai trò quan trọng của muối trong xử lý từ con cá ra con mắm và mượn hình tượng ấy để răng dạy con cái nên người. Hay câu : con cá làm ra con mắm, vợ chồng mình thương lắm ai ơi. Tình nghĩa vợ chồng keo sơn gắng bó lại được ví hình ảnh giữa cá và mắm
Để làm mắm cần chọn những con cá tươi, đánh vẩy làm sạch ruột rồi đem ướp muối đựng trong các lu khạp. Sau khoảng một đến hai tuần vớt ra rửa sạch với nước ngọt để cho thật ráo rồi tẩm thính. Chế biến thính cũng là một công đoạn khá công phu và quan trọng của việc làm mấm, gạo càng tốt thì thính càng thơm ngon và tạo mùi đặc trưng sau này của mắm. Người rang thính phải canh lửa vừa phải và trộn đều cho đến khi gạo vàng đều mới đem xuống sau đó đem xoay nhuyễn bằng cối say đá .

 Cá được tẩm thính xong sếp trở lại vào các khạp chứa sau đó dùng manh đệm hoặc miếng rê rổ trãi phủ bề mặt và dùng các thanh tre cài chéo sao cho tắm phủ không bị hở khỏi lóp cá. Cuối cùng là công đoạn chao mắm với đường được thắng chín và để nguội, mắm sau khi chao đường được ba đến năm ngày là có thể dùng được. Khi con cá biến thành con mắm rồi thì thỏa sức chế biến các món ăn, nào là ăn mắm sống, mắm chưng, mắm kho, nấu lẩu mắm ăn bún mắm, muốn đơn giản và nhanh nhất là ăn mắm sống, con mắm để nguyên hoặc xé thành miếng nhỏ, nặng vào ít chanh trộn thêm ớt tỏi và thêm một ít gia vị là có thể dùng được rồi. Tuy đơn giản vậy thôi nhưng vô cùng tuyệt hảo vì con mắm còn giữ được nguyên chất ngọt lịm vốn có của nó. Chén cơm nguội, đĩa mắm sống vài ba thứ rau đồng, nhâm nhi vài ly rượu giữa không gian đồng quê mênh mông còn thoảng mùi rạ mới thì không gì sánh bằng .

 Để có một lẩu mắm ngon cần phải chuẩn bị nhiều rau nhưng phải là các loại rau đồng như rau nhúc, rau muốn, rau ngổ, cần đước, cù nèo, tai tượng , rau đắng, bông so đủa, bông điên điển, giá, bắp chuối và nhất là bông súng thì ăn mới đã .
 Nấu lẩu mắm cũng khá cầu kỳ, 2 loại mắm nấu lẩu ngon nhất là mắm cá sặc và mắm cá lóc. Lẩu mắm có thể ăn chung được với hầu hết các cá đồng, tôm, mực, cá biển, thịt heo tùy ý thích của người ăn. Vị béo ngọt tự nhiên của đủ thứ tôm cá thịt kết hợp với hương vị mắm đồng cho một cảm giác vừa lạ vừa quen, vừa sang trọng cầu kỳ lại vừa dân dã bình dị. Hương thơm từ nồi lẩu tỏa ngát không gian ấm cúng của gia đình bạn bè và người thân, làm cho con người ta thấy an bình dung dị và khoan khoái lạ thường, bao nhiêu vất vả lo toan của cuộc sống thường ngày tan biến, cảm giác ấy khó có thể nhạt phai trong ký ức của người con miền tây nam bộ. Giờ đầy món mắm đồng lừng danh của đồng quê miền tây đã ra chốn thị thành khắp các miền đất nước và cả nước ngoài, ai cũng có thể thưởng thức được mắm đồng và ở bất cứ đâu nhưng khó có thể tìm được cảm giác khoan khoái đúng nghĩa mắm đồng, bởi ăn mắm đồng cần phải có không gian hương đồng gió nội mới thấm được cái nghĩa cái tình của quê hương trong đó, nếu thiếu đi không gian bình yên của đồng quê thì mắm đồng cũng mất đi hương vị đậm đà của nó .Con mấm chứa đựng hương thơm của phù sa đồng ruộng, chứa cả tình thương bao la của đấng sinh thành và tình quê hương từ con sông bến nước ruộng đồng để rồi khi sống xa quê tâm hồn gợi lên một nỗi nhớ thương da diết, bao kỷ niệm cứ mãi tuông trào trong ký ức .


 Trong không khí ấm áp của mùa xuân của vụ lúa thu hoạch gần xong cũng là mùa bắt cá đồng để làm mắm. Ngày trước, nhà nào cũng có ít nhất một khạp mắm để dành ăn quanh năm , nay do nguồn cá tự nhiên khan hiếm nên ít người làm mắm hơn. Nguyên liệu làm mắm bay giờ cũng ít nhiều là cá nuôi , nhưng theo thời gian kinh nghiệm chế biến mắm của người dân tích lũy được nhiều hơn nên bù được cho chất lượng của nguyên liệu vì thế hương vị của mắm đồng không khác gì so với ngày trước, ở quê chợ nào cũng bán mắm, có nhiều gia đình làm mấm để cung cấp cho cả vùng, thèm ăn mắm chỉ cần vài chục ngàn đồng thôi là đã có một cái lẩu mắm tuyệt vời. Mắm đồng sẽ mãi tồn tại trong văn hóa ẩm thực của người dân sông nước miền tây, còn đối với những người con xa xứ, mắm đồng chính hồn quê là đồng ruộng, con sông bến nước mãi mãi không sao quên được .